Trang chính
Trang chủ    ¤   Gửi bài    ¤   Lịch học tập    ¤   Kết quả điểm    ¤   Tìm kiếm
 
Tin tức » Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Chủ nhật, 28-4-2024

motor Teco

Nhà phân phối motor Teco ở Việt Nam

dong co Siemens

chuyen cung cap dong co Siemens

hạt giống sen mini

chuyên cung cấp hạt giống sen mini Nhật Bản

hoa lan hồ điệp

chuyên cung cấp hoa lan hồ điệp ở TPHCM

shop quần áo đá banh

LONI sport là shop quần áo đá banh ở TPHCM

hoa tuoi

Shop hoa tuoi cung cap hoa tuoi o tphcm

Đặt quần áo đá banh

Chuyên đặt quần áo đá banh ở TPHCM

Giày bóng đá

Cung cấp giày bóng đá giá rẻ ở TPHCM

Hạt giống hoa

Cung cấp hạt giống hoa ở TPHCM - giao hạt giống hoa toàn quốc

kho lạnh

Thiết kế và thi công kho lạnh tiêu chuẩn châu Âu

Màn nhựa PVC

Phân phối màn nhựa PVC Extruflex của Pháp

BẢO VỆ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA KARL MARX TRONG TÌNH HÌNH MỚI
02.11.2023 10:05

Bài viết làm rõ nội dung và nghiên cứu bổ sung một số nội dung mới của học thuyết giá trị thặng dư của Karl Marx. Học thuyết này đã trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân. Ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất đã có những biến đổi sâu sắc, kéo theo những thay đổi nhất định trong quan hệ sản xuất, ... Sự phát triển này đòi hỏi giảng viên Trường Chính trị vừa phải tiếp tục nghiên cứu và bổ sung lý luận này trong điều kiện mới, vừa phải đấu tranh phê phán các tư tưởng xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với lý luận của Karl Marx. Từ đó, góp phần củng cố niềm tin của học viên chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở vào đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. Học thuyết giá trị thặng dư – học thuyết mang bản chất khoa học – không thể phủ nhận

Việc nghiên cứu và phát hiện ra quy luật sản xuất giá trị thặng dư là một công trình khoa học vĩ đại của Karl Marx trong kinh tế chính trị học. Từ giữa thế kỷ XVII đến nay, các nhà kinh tế như William Petty (1623-1687), François Quesnay (1694 - 1774), Adam Smith (1723 - 1790), David Ricardo (1772 – 1823), … đều đã nghiên cứu vấn đề giá trị thặng dư được tạo ra như thế nào. Nhưng tất cả các nhà kinh tế đều phạm phải cái sai lầm là đã không xét giá trị thặng dư dưới dạng thuần túy, với tư cách là giá trị thặng dư, mà xét dưới hình thái đặc thù là lợi nhuận và địa tô.

Đầu những năm 40 của thế kỷ XIX, Karl Marx ngay từ lúc bắt đầu nghiên cứu kinh tế chính trị học đã đứng trên lập trường giai cấp công nhân vạch rõ tính lịch sử xã hội của các phạm trù tư bản, lợi nhuận. Cùng với sự sáng tạo quan điểm duy vật lịch sử và việc vận dụng quan điểm này vào nghiên cứu kinh tế chính trị học, đặc biệt là sáng tạo ra phương pháp luận khoa học trong việc phân tích quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ các hình thái cụ thể lợi nhuận, lợi tức, địa tô, Karl Marx đã trừu tượng hóa các tính quy định nội tại bản chất trong đó, lần đầu tiên nêu ra phạm trù “giá trị thặng dư”. Karl Marx đã hoàn toàn phân biệt giá trị thặng dư nói chung và giá trị thặng dư đặc thù. Do đó, có thể bóc trần bản chất của cái gọi là hình thức thu nhập của lợi nhuận, lợi tức, địa tô. Việc vạch ra giá trị thặng dư nói chung đã nói rõ bản chất của giá trị thặng dư, đã đính chính những sai lầm căn bản trong nghiên cứu giá trị thặng dư. Lý luận hàng hóa sức lao động vạch ra nguồn gốc giá trị thặng dư, khám phá ra bí mật của quá trình tư bản bóc lột lao động làm thuê. Việc sáng lập ra lý luận luận hàng hóa sức lao động của Karl Marx, không những vạch ra sâu sắc nguồn gốc của giá trị thặng dư, mà còn giải quyết triệt để về mặt lý luận những khó khăn, bế tắc của các trường phái cổ điển. Trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chỉ là sức lao động chứ không phải lao động. Chính trên cơ sở lý luận lao động chặt chẽ, Karl Marx đã vạch ra nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư tập trung thể hiện mối quan hệ giữa lao động làm thuê và tư bản với tư cách là cái trục vận động của chủ nghĩa tư bản. Do đó, trong khi trình bày về cơ sở của hai phương pháp cơ bản để sản xuất ra giá trị thặng dư, Karl Marx lại đề ra lý luận sự phụ thuộc của lao động vào tư bản. Ông khẳng định sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị thặng dư có tác dụng quyết định đối với sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Do sản xuất giá trị thặng dư là nội dung đặc biệt và là mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, cho nên, quy luật giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, giữ vị trí chủ đạo và đóng vai trò quyết định trong hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản.

Biểu hiện rõ nhất của quy luật giá trị thặng dư hiện nay chính là trong đại dịch COVID-19 từ cuối năm 2019 đến nay. Số người giàu trên thế giới ngày càng giàu hơn trong khi người nghèo càng trở nên khó khăn. Điều này được phản ánh trong báo cáo bất bình đẳng thế giới do một nhóm các nhà khoa học xã hội thực hiện. Theo báo cáo, giá trị tài sản mà các tỷ phú trên thế giới sở hữu trong năm 2021 chiếm 3,5% giá trị tài sản toàn cầu, cao hơn nhiều so với mức 2% khi dịch bệnh bắt đầu bùng phát vào đầu năm 2020. Danh sách các tỷ phú thế giới hàng năm do Forbes bình chọn năm 2021 cho thấy số tỷ phú kỷ lục 2.755 người nắm giữ tổng giá trị tài sản lên tới 13.100 tỷ USD, tăng mạnh so với con số 8.000 tỷ USD ghi nhận năm ngoái. Một nhóm 520.000 người trưởng thành giàu nhất - chỉ chiếm 0,01% dân số thế giới - năm 2021 sở hữu 11% tài sản toàn cầu, tăng so với con số 10% năm ngoái. Người nằm trong nhóm thiểu số này sở hữu tài sản có giá trị ít nhất 16,7 triệu euro (19 triệu USD). Theo các nhà phân tích, trong nhóm siêu giàu đã hưởng lợi từ hoạt động mua bán trực tuyến phổ biến trong thời kỳ dịch bệnh.

2. Khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa – tính tất yếu khách quan

Dưới ánh sáng của học thuyết giá trị thặng dư, Karl Marx đã nghiên cứu tính tất yếu và tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Marx đã vạch ra nguồn gốc của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa là do mâu thuẫn nội tại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Và Marx đã mô tả quá trình vận động kế tiếp nhau mang tính chu kỳ lặp đi lặp lại của các giai đoạn: phồn vinh, suy thoái, khủng hoảng, đình trệ, phồn vinh mới, … diễn ra trong tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Qua việc phân tích vận động mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, Marx cho rằng, sự phát triển của quan hệ tư bản đến một điểm nhất định sẽ hạn chế sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lúc đó, tư bản, tức lao động làm thuê cũng giống như các quan hệ đã phát sinh và phát triển trong lịch sử như chế độ phường hội, chế độ nông nô, chế độ nô lệ, chế độ phong kiến là những xiềng xích cần phải đập tan để phát triển lực lượng sản xuất và của cải xã hội. Khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là sự biểu hiện cụ thể của sự không thích ứng ngày càng tăng giữa sự phát triển của nền sản xuất xã hội với quan hệ sản xuất hiện tồn.

Marx cho rằng, trong điều kiện sản xuất hàng hóa giản đơn, đã tồn tại hai khả năng có tính hình thức của khủng hoảng. Một là, trong bản thân sự biến hóa hình thái của hàng hóa, việc mua và bán có thể tách rời nhau, sự tách rời này làm cho sự thống nhất vốn có giữa H – T và T – H được thực hiện bằng con đường bạo lực, phải dùng bạo lực đánh vào sự độc lập mà chúng đã có được đối với nhau. Còn khủng hoảng thì chẳng qua chỉ là việc thực hiện bằng bạo lực sự thống nhất những giai đoạn của quá trình sản xuất, những giai đoạn này đã bị tách rời và đã trở thành độc lập đối với nhau. Hai là, tiền tệ làm chức năng phương tiện thanh toán trong hai thời kỳ khác nhau, tách rời khỏi nhau, tiền thể hiện ra trong hai chức năng khác nhau, khi nợ khấu trừ nợ lẫn nhau thì chỉ làm thước đo giá trị trên quan niệm, mà khi thực hiện giá trị cần sự thanh toán tiền tệ thực sự. Trong quá trình này, nếu như giữa người vay nợ và người chủ nợ hình thành một quan hệ mắt xích, mà có một khâu bị đứt, thì có khả năng xuất hiện cuộc khủng hoảng tiền tệ với đặc trưng chủ yếu là sự thiếu hụt nghiêm trọng phương tiện thanh toán. Nhưng hai hình thái này chỉ là hình thái trừu tượng chung nhất của khủng hoảng, không phải là nguyên nhân khủng hoảng. Nguồn gốc của khả năng khủng hoảng biến thành hiện thực là ở mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển đầy đủ của các mâu thuẫn đó. Marx đã vạch rõ đặc tính chung của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa là toàn bộ tư bản hàng hóa đều phải kinh qua quá trình H – T – H. Do đó, chỉ cần tư bản mang hình thái hàng hóa, thì đã bao hàm khả năng chung của khủng hoảng trong hình thái hàng hóa, tức là việc tách rời giữa mua và bán, cũng bao hàm trong sự vận động tư bản. Trong sự vận động của quá trình tái sản xuất, tư bản quan hệ lẫn nhau và đan xen vào nhau, các quy luật nội tại của khủng hoảng cũng đã mở rộng, hai hình thái tiềm ẩn trong lưu thông hàng hóa giản đơn – mâu thuẫn giữa mua và bán, mâu thuẫn của tiền tệ làm phương tiện thanh toán – đã bộc lộ một cách thực tế trong quá trình tác động của cơ chế kinh tế vận động cạnh tranh và tín dụng trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xem xét quá trình tái sản xuất xã hội tư bản chủ nghĩa, việc tách rời giữa mua và bán trong kinh tế hàng hóa giản đơn, đã chuyển hóa thành sự tách rời giữa giai đoạn sản xuất và giai đoạn lưu thông tư bản chủ nghĩa. Do đó, một số nhà kinh tế học tư sản phủ nhận khủng hoảng, tất nhiên phải phủ nhận kịch liệt tính chất tách rời nhau trong vận động của giai đoạn sản xuất và giai đoạn lưu thông, nhấn mạnh sự thống nhất giữa hai giai đoạn này. Thực ra, giai đoạn sản xuất và giai đoạn lưu thông là hai mặt đối lập nhau, nhưng bổ sung cho nhau trong tái sản xuất xã hội tư bản chủ nghĩa. Khủng hoảng chính là việc phục hồi bằng bạo lực sự thống nhất của những yếu tố đã trở thành độc lập và việc dùng bạo lực để biến những yếu tố về thực chất là một cái gì thống nhất, thành một cái gì có tính chất độc lập. Do đó, về mặt kết cấu logic hệ thống lý luận kinh tế chính trị học, khủng hoảng còn nhiều nhân tố, điều kiện, khả năng, chỉ có thế nghiên cứu nó khi đã phân tích thêm nhiều mối liên hệ cụ thể, đặc biệt là phân tích cạnh tranh và tín dụng của tư bản. Điều đó nói lên, chỉ có trên cơ sở trình bày đầy đủ quá trình sản xuất trực tiếp, quá trình lưu thông tư bản và quá trình chung của tư bản mới có thể lý giải toàn diện tính tất yếu nội tại của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nói khác đi, tính tất yếu nội tại của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là sự thể hiện tập trung sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Mặc dù có thay đổi phương thuốc chủ nghĩa tư bản, từ hơn một thế kỷ nay, nó vẫn cứ định kỳ, không những không thuyên giảm mà ngày một trầm trọng thêm lên. Từ 1925 là năm nổ ra cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản cho đến nay. Ít nhất chủ nghĩa tư bản trải qua 05 lần khủng hoảng. Đại suy thoái năm 1929-1939 được xem là cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất thế kỷ 20. Nó không chỉ tàn phá nền kinh tế Mỹ mà còn tác động đến kinh tế thế giới. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh nguyên nhân của đại suy thoái. Nhiều người cho rằng thảm họa này xuất phát từ sự sụp đổ thị trường chứng khoán phố Wall và quyết định sai lầm của Chính phủ Mỹ. Tại Mỹ, vào đầu thế kỷ 20, việc cấp tín dụng trở nên vô cùng dễ dàng. Tình trạng này đã dẫn đến sự lạm dụng vay tín dụng để đầu cơ chứng khoán. Vào tháng 10/1929, giá cổ phiếu trên phố Wall sụt giảm mạnh. Bong bóng tài chính tan vỡ gây ra sự hỗn loạn trên thị trường. Hậu quả là Chính phủ và doanh nghiệp rơi vào tình cảnh nợ nần. Bên cạnh đó, chính sách thuế và những món nợ của chính phủ thời kỳ đó khiến hàng hóa không thể bán ra nước ngoài. Ảnh hưởng của nó nhanh chóng lan rộng sang các nước khác. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã khiến sản lượng công nghiệp giảm 45%, khoảng 5.000 ngân hàng phá sản, 50 triệu người thất nghiệp, mâu thuẫn xã hội bùng nổ. Một số nước tư bản không có hoặc ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường. Họ đã đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị để giải quyết tình trạng này.

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gần đây nhất đã bùng phát vào cuối thập niên vừa qua “Cuộc khủng hoảng suy thoái toàn cầu năm 2008”. “Cuộc khủng hoảng thế chấp độc hại” này xảy ra khi các ngân hàng Mỹ cho vay thế chấp mua nhà lãi suất cao với những người không có khả năng thanh toán tài chính. Sau đó, số ngân hàng này đã tập trung đầu tư vào lĩnh vực không có nhiều lợi nhuận, cũng như bán lại nhiều lần trên thị trường tài chính. Bong bóng tài chính bùng nổ khi các khoản nợ tín dụng không thể được chi trả, giá nhà đất chạm đáy, trong khi hàng triệu người mất nhà cửa. Thị trường chứng khoán sụp đổ, thất nghiệp tăng cao, hệ thống ngân hàng lao đao, mà đỉnh điểm là việc ngân hàng Lehman Brothers đệ đơn phá sản vào năm 2008. Đáng chú ý, mặc dù bắt nguồn gốc từ Mỹ, nhưng cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan sang các quốc gia khác, tạo thành một thảm họa tài chính đối với những nền kinh tế không thể tự bảo vệ được mình.

Chiến tranh giữa Nga và Ukraine từ ngày 24 tháng 02 năm 2022 đến nay, đang gây ra cú sốc lạm phát đình trệ nghiêm trọng, đẩy giá cả tăng cao khi nguồn cung năng lượng bị đe dọa và siết chặt thu nhập của các hộ gia đình và doanh nghiệp khi các mặt hàng thiết yếu trở nên đắt đỏ hơn. Với cuộc xung đột lớn nhất ở châu Âu trong vòng 80 năm, nguy cơ leo thang căng thẳng khiến niềm tin tiêu dùng giảm sút trong khi châu Âu phải giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn thậm chí còn lớn hơn năm 2015. Trong khi đó, dịch COVID-19 bùng phát trở lại ở Trung Quốc một lần nữa đe dọa chuỗi cung ứng toàn cầu, làm gia tăng áp lực tăng giá và giảm sản lượng. So với đại dịch COVID-19, một cuộc xung đột kéo dài ở Ukraine gây nguy cơ "tồi tệ hơn rất nhiều" đối với kinh tế châu Âu, do gián đoạn chuỗi cung ứng, tình trạng khan hiếm năng lượng và lạm phát cao. Ukraine cung cấp cho thế giới 70% khí neon, được sử dụng để sản xuất chất bán dẫn, trong khi Nga là nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu palladium - nguyên liệu để sản xuất bộ chuyển đổi xúc tác.

Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế này bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã tập trung tư liệu sản xuất vào tay những nhà tư bản và biến tư liệu sản xuất cá nhân thành những tư liệu sản xuất xã hội. Khủng hoảng nổ ra vào lúc sản xuất đạt tới mức điểm cao nhất, lúc mà tình trạng mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng đã tích luỹ đến độ nghiêm trọng. Một khi mà dòng lưu thông đã đầy ứ hàng hoá thì nó có thể bị phá tung ra ở bất cứ chỗ nào một cách vô cùng đột ngột.

3. Học thuyết giá trị thặng dư trong điều kiện mới ngày nay

Ngày nay, chúng ta đang sống trong điều kiện có nhiều cái mới, rất khác so với thời kỳ của Karl Marx. Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt của đời sống xã hội nói chung và lực lượng sản xuất nói riêng. Những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở tất cả những yếu tố cấu thành của nó là trình độ của tư liệu sản xuất và trình độ của người lao động. Trong bối cảnh đó, học thuyết giá trị thặng dư của Karl Marx mặc dù có nhiều giá trị bền vững cho đến ngày nay nhưng có những điểm cần được nghiên cứu bổ sung, phát triển.

Thứ nhất, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và tri thức được phổ biến nhanh chóng, hầu như tức thời, với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới, nhất là sự ra đời của trí tuệ nhân tạo (AI) đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phá triển rất nhanh. Công nghệ AI là các hệ thống thiết bị kỹ thuật số có khả năng thực hiện những nhiệm vụ mà bình thường phải cần tới trí thông minh của con người. Công nghệ AI được phát triển nhằm hướng tới mục tiêu là xây dựng các hệ thống có khả năng suy nghĩ như con người, xây dựng các hệ thống vận hành tự động, ứng dụng một số tư duy của con người vào các dịch vụ, sản phẩm nhằm tăng giá trị của các dịch vụ, sản phẩm này. So với các công nghệ mới khác, như máy tính lượng tử, 5G, internet vạn vật (IoT), công nghệ AI có đặc trưng là năng lực tự học của máy tính, do đó có thể tự phán đoán, phân tích trước các dữ liệu mới mà không cần sự hỗ trợ của con người; đồng thời, có khả năng xử lý dữ liệu lớn và tốc độ cao. Hiện nay, mỗi ngày trên thế giới có khoảng 2,2 tỉ Gb dữ liệu mới (tương đương 165.000 tỉ trang tài liệu) được tạo ra và được các công ty như Google, Apple, Microsoft, Twitter, Facebook, Youtube, Amazon, Tesla, Baidu, Weibo, Tencent, Alibaba, … thu thập để tạo thành dữ liệu lớn (big data). Thống kê của Visual Capitalist tính đến tháng 3/2022 cho thấy, 100 công ty lớn nhất thế giới có tổng vốn hóa đạt 31.700 tỷ USD, tăng 48% so với cùng kỳ năm ngoái. Các doanh nghiệp công nghệ (Big Tech) thống trị top 10, có giá trị vốn hóa thị trường cao nhất trong bối cảnh dịch COVID-19 ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế thế giới. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới, chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn trước kia chưa có hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp. Qua đó, chủ nghĩa tư bản đương đại thu được giá trị thặng dư ngày càng cao và bóc lột rất tinh vi, bằng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối, sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch là chủ yếu, trên phạm vi toàn thế giới.

Thứ hai, ngày nay, giai cấp công nhân không chỉ có những người lao động chân tay thuần túy, mà còn bao gồm cả tầng lớp những người trí thức. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, bản thân người lao động là công nhân cũng có sự thay đổi đáng kể. Ở thời đại củaKarl Marx, lực lượng lao động chủ yếu là công nhân lao động thủ công, nhưng ngày nay, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của con người được giải phóng; trình độ kiến thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy, doanh nghiệp, số lượng nhân lực khoa học  - công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng, điều này đã và đang làm thay đổi dần tỷ trọng của lao động phổ thông và lao động có trình độ cao. Kết quả là thời gian lao động thặng dư trong ngày lao động của công nhân tăng nhanh mặc dù hiện nay có một số quốc gia phát triển tuần lao động chỉ còn 44 giờ hoặc 40 giờ chứ không phải 48 giờ như các quốc gia Bắc Âu, Anh, UAE, Quatar, ...

Thứ ba, về quan hệ sở hữu, ngoài đối tượng sở hữu đã có những thay đổi lớn, từ sở hữu hiện vật sang giá trị, với việc chia nhỏ cổ phần, phát hành cổ phiếu mệnh giá thấp, chủ nghĩa tư bản đã huy động được hàng triệu nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân tập trung thành nguồn lực to lớn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, phần nào làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo không gian cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu phần nào xóa đi ranh giới giữa nhà tư bản với người lao động, tạm thời dung hòa mâu thuẫn giữa ông chủ và người làm thuê. Về quan hệ phân phối, bên cạnh các hình thức phân phối thông qua giá cả sức lao động, trong chủ nghĩa tư bản đương đại cũng xuất hiện nhiều hình thức phân phối khác đa dạng, phong phú hơn. Bao gồm, điều tiết phân phối giá trị thặng dư thông qua thuế; phân phối thông qua lợi tức cổ phần; trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội; các hình thức đầu tư cho giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; tăng mức thưởng và đãi ngộ cho người lao động … phần nào tạo ra nguồn thu nhập thêm cho người lao động. Sự bóc lột của nhà tư bản không còn đậm nét như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Tóm lại, với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng cao và một số biểu hiện mới về sở hữu, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, vẫn không thể bác bỏ được những luận điểm về bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Mà trái lại, nó càng làm phong phú và sâu sắc hơn những luận điểm của Karl Marx về sự bóc lột giá trị thặng dư trong điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó càng khẳng định sức sống của học thuyết giá trị thặng dư của Karl Marx được thể hiện ở những dự báo khoa học có ý nghĩa thời đại của ông. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu và bảo vệ học thuyết giá trị thặng dư, vừa là nhiệm vụ vừa là trách nhiệm, có ý nghĩa rất quan trọng của giảng viên và học viên Trường Chính trị trong chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.

Tài liệu tham khảo:

1.    Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình đào tạo cán bộ ở cơ sở (phần kinh tế chính trị), Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2021.

2.    C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1995.

3.    Đ.I. Rodenbe, Giới thiệu Quyển I Bộ “Tư bản” của Các Mác, NXB CTQG-Sự thật, Hà Nội, năm 2012.

4.    TS. Trần Hoa Phượng, Phủ nhận lý luận về hàng hóa sức lao động của Các Mác hay trò xảo biện che đậy bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản hiện đại, website www.tapchicongsan.org.vn, ngày 02-05-2021.

5.    GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân Dân số ra ngày 17/5/2021.



ThS Nhan Thanh (Khoa LLCS)



Gửi qua YM

Những bản tin khác:



 Đăng nhập/Đăng ký 
Bí danh
Mật khẩu
Ghi nhớ
 Online 
 Khách: 002
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 002
 Hits 004223347
IP của bạn: 3.128.198.21
Trang chủ    ¤   Gửi bài    ¤   Lịch học tập    ¤   Kết quả điểm    ¤   Tìm kiếm

- Trang thông tin điện tử Trường Chính trị Phạm Hùng tỉnh Vĩnh Long
- Cơ quan chủ quản: Trường Chính trị Phạm Hùng
- Chịu trách nhiệm: Ban biên tập Trường Chính trị Phạm Hùng
- Địa chỉ : 241 Đinh Tiên Hoàng - Phường 8 - Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
- Điện thoại: 02703822315, 0270826098
- Email: tctph.vinhlong@gmail.com