CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - BIỂU TƯỢNG LỊCH SỬ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ BÀI HỌC CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HIỆN NAY
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - BIỂU TƯỢNG LỊCH SỬ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ BÀI HỌC CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HIỆN NAY
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, một chính quyền công nông được thiết lập ở Đông Nam Á. Cuộc cách mạng ấy không chỉ mang ý nghĩa giải phóng dân tộc mà còn là một minh chứng điển hình cho cuộc đấu tranh giai cấp triệt để trong thời đại mới, kết tinh khát vọng độc lập - tự do -hạnh phúc của nhân dân lao động.
Trong bối cảnh hiện nay, giá trị của Cách mạng Tháng Tám về vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân, tinh thần độc lập dân tộc và công bằng xã hội vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, việc nhìn nhận Cách mạng Tháng Tám như một biểu tượng của đấu tranh giai cấp và rút ra bài học lý luận cho phát triển bền vững hiện nay là điều có ý nghĩa cấp thiết.
1. Cách mạng Tháng Tám - biểu tượng của đấu tranh giai cấp
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp…những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”[1]. Đây không chỉ là kết luận rút ra từ lịch sử châu Âu mà còn là quy luật phổ quát trong sự vận động của xã hội có giai cấp. Ở Việt Nam, quy luật đó thể hiện đặc thù qua sự kết hợp chặt chẽ giữa mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc trong hoàn cảnh thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách áp bức của chủ nghĩa thực dân và phong kiến, các tầng lớp bị trị, trước hết là công nhân và nông dân vừa bị bóc lột về kinh tế, vừa bị tước đoạt quyền làm chủ vận mệnh dân tộc. Chính mối quan hệ biện chứng giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đã tạo nên đặc điểm riêng có của cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong đó đấu tranh giai cấp là nền tảng, còn đấu tranh dân tộc là nhiệm vụ trực tiếp, cấp bách. Tư tưởng đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong nhiều văn kiện, đặc biệt là trong “Chánh cương vắn tắt” (1930), khi Người xác định rõ mục tiêu của cách mạng là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2].
Trước năm 1945, Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến điển hình, nơi mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp cùng tồn tại và phát triển gay gắt. Mâu thuẫn dân tộc giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp, sau là phát xít Nhật, là mâu thuẫn cơ bản, bao trùm, mang tính chủ đạo và cần được giải quyết trước tiên để giành lại độc lập dân tộc. Đồng thời, các mâu thuẫn giai cấp cũng diễn ra sâu sắc: giữa giai cấp công nhân với chủ tư bản Pháp; giữa nông dân với địa chủ, cường hào; giữa trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc với chế độ thực dân phong kiến phản tiến bộ. Sự bóc lột của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến đã đẩy nhân dân vào cảnh mất đất, mất việc, mất quyền sống, trở thành điều kiện khách quan thúc đẩy phong trào đấu tranh giai cấp có tổ chức.
Giai cấp công nhân Việt Nam, hình thành từ cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh vào đầu thế kỷ XX, là một tầng lớp lao động đông đảo, làm việc trong môi trường khắc nghiệt tại các hầm mỏ, đồn điền, nhà máy do thực dân Pháp kiểm soát. Họ không có bất kỳ quyền lợi chính trị nào, bị bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần, nhưng lại là lực lượng có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, tiếp nhận sớm tư tưởng cách mạng vô sản và sẵn sàng đảm nhận vai trò tiên phong trong phong trào cách mạng. Bên cạnh đó, giai cấp nông dân, chiếm hơn 80% dân số là lực lượng lao động chủ yếu nhưng không có tư liệu sản xuất, chủ yếu làm thuê, bị bóc lột bởi địa chủ và bị áp bức bởi chính sách thuế khóa hà khắc cùng sự thống trị của thực dân phong kiến. Mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với địa chủ và chế độ thống trị ngày càng gay gắt, biến họ thành một lực lượng cách mạng đông đảo, có tinh thần nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ. Đồng thời, các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc tuy có trình độ văn hóa và một số tiềm lực kinh tế, nhưng lại bị thực dân Pháp khống chế, hạn chế phát triển, đàn áp tư tưởng và ngôn luận. Chính hoàn cảnh đó đã thúc đẩy bộ phận trí thức yêu nước và tiểu tư sản tiến bộ nhanh chóng chuyển hóa lập trường, đứng về phía cách mạng, tạo thành một bộ phận quan trọng trong lực lượng dân tộc dân chủ rộng rãi, sẵn sàng tham gia lật đổ ách thống trị phản động đương thời.
Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là bước ngoặt lịch sử quan trọng, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và gắn bó máu thịt với các tầng lớp lao động. Đảng không chỉ đứng về phía người bị áp bức, bóc lột mà còn đưa ra cương lĩnh cách mạng đúng đắn, kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và nhiệm vụ giải phóng giai cấp. Do đó, đấu tranh giai cấp trong xã hội Việt Nam giai đoạn này không tách rời mà hòa quyện trong cuộc đấu tranh dân tộc, trở thành nội dung trung tâm và nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc dưới hình thức cách mạng dân chủ nhân dân kiểu mới.
Quá trình phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến trước thềm Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động cho sự trưởng thành cả về lực lượng và tổ chức. Từ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), cuộc tổng bãi công của công nhân Bãi Sậy, Nam Kỳ khởi nghĩa, đến cao trào cách mạng 1936 - 1939 và cao trào kháng Nhật năm 1945, tất cả đều cho thấy sự tham gia mạnh mẽ của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức yêu nước vào quá trình cách mạng. Đặc biệt, việc thành lập Mặt trận Việt Minh và sự phát động tổng khởi nghĩa, chỉ trong vòng 15 ngày, từ ngày 14 đến 28 tháng 8 năm 1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã diễn ra thắng lợi trên toàn quốc, đã chứng minh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu của cách mạng là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sự thành công ấy không chỉ nhờ thời cơ chính trị thuận lợi mà còn là kết quả của quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị sâu rộng, với nòng cốt là giai cấp công - nông, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng.
2. Bài học cho phát triển bền vững hiện nay
Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tiêu biểu của sự kết tinh giữa tinh thần dân tộc và đấu tranh giai cấp, giữa lý tưởng cách mạng và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Từ những giá trị to lớn ấy, có thể rút ra nhiều bài học quý báu cho sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện.
Thứ nhất, kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng
Một trong những bài học xuyên suốt từ Cách mạng Tháng Tám là vai trò quyết định của Đảng Cộng sản trong việc định hướng, tổ chức và lãnh đạo các phong trào cách mạng. Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số toàn diện, vai trò lãnh đạo của Đảng không những vẫn mang tính quyết định mà còn cần được nâng lên một tầm cao mới. Đảng phải là lực lượng hạt nhân có khả năng định hướng chiến lược, tổ chức thực hiện, kiểm soát quyền lực và bảo vệ lợi ích nhân dân. Đặc biệt, trong điều kiện phát triển bền vững đòi hỏi luôn gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu xã hội, bảo đảm phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà còn là tiến bộ và công bằng xã hội. Văn kiện Đại hội XIII đã khẳng định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”[3] là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045.
Thứ hai, phát huy vai trò giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân trong thời đại mới
Một trong những nội dung cốt lõi được kế thừa từ Cách mạng Tháng Tám là vai trò của liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Ngày nay, sự liên minh này không chỉ có tính lịch sử, mà còn mang tính tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong kỷ nguyên số. Giai cấp công nhân hiện đại phải chuyển mình trở thành công nhân tri thức, làm chủ công nghệ, vận hành hệ thống sản xuất thông minh. Người nông dân cần được hỗ trợ để tiếp cận nền nông nghiệp số, ứng dụng công nghệ vào sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trí thức với vai trò là lực lượng sáng tạo, cần chủ động hơn trong nghiên cứu khoa học, phản biện xã hội và dẫn dắt quá trình đổi mới. Việc phát huy sức mạnh toàn thể nhân dân không chỉ là điều kiện để phát triển kinh tế mà còn là bảo đảm cho tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ ba, kết hợp tăng trưởng với công bằng xã hội
Một trong những giá trị mà Cách mạng Tháng Tám để lại là tư tưởng về phát triển gắn với công bằng xã hội. Đất nước không thể phồn vinh, dân tộc không thể phát triển, nhân dân không thể có cơm ăn, áo mặc và cuộc sống hạnh phúc nếu không có độc lập tự do. Phát triển không thể chỉ dựa trên tốc độ tăng trưởng GDP mà cần được đánh giá qua khả năng bảo đảm an sinh xã hội, giảm bất bình đẳng, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo. Những năm qua, chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước ta chủ trương hướng đến quyền lợi của nhóm yếu thế, vùng sâu, vùng xa và người dân tộc thiểu số, bảo đảm tiếp cận công bằng các dịch vụ công thiết yếu trong giáo dục, y tế, giải quyết việc làm. Việc chăm lo đến quyền lợi và điều kiện sống của những nhóm yếu thế như: người nghèo, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân ở vùng sâu, vùng xa cũng chính là cách để hiện thực hóa lý tưởng “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình phát triển đất nước. Đây không chỉ là bài toán kinh tế mà còn là yêu cầu lý luận chính trị nhằm xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân trong bối cảnh hiện đại.
Thứ tư, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Cách mạng Tháng Tám thành công không thể tách rời vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nơi các giai cấp, tầng lớp cùng nhau đấu tranh vì một mục tiêu chung. Đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chính trị, mà là nguồn lực tinh thần to lớn, là nền tảng để hóa giải các mâu thuẫn về lợi ích, tư tưởng, vùng miền trong quá trình phát triển đa ngành, đa chiều của đất nước. Mặt khác, đoàn kết là điều kiện để mỗi người dân được tham gia, được làm chủ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thực tiễn, các phong trào như “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; phong trào “Bình dân học vụ số”; phong trào “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát”… hay sự đồng lòng của toàn dân trong phòng, chống dịch Covid-19 đã cho thấy sức mạnh tinh thần và năng lực tổ chức to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc một sức mạnh mang tính quyết định cho sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia. Việc mở rộng dân chủ, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, khuyến khích các hình thức tham gia cộng đồng sẽ tạo ra môi trường phát triển hài hòa, bền vững, trong đó nhân dân thật sự là trung tâm và là chủ thể của mọi chính sách phát triển.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, không chỉ đánh dấu sự chấm dứt chế độ thực dân phong kiến, khai sinh ra nhà nước cách mạng của nhân dân, mà còn thể hiện rõ nét bản chất giai cấp của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong thắng lợi ấy, vai trò của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân, dưới ngọn cờ của Đảng, là minh chứng sinh động cho sức mạnh của liên minh các lực lượng cách mạng trong việc lật đổ áp bức dân tộc và giai cấp, xây dựng một xã hội mới độc lập, tự do, công bằng và tiến bộ.
Từ giá trị và bài học lịch sử sâu sắc đó, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số sâu rộng, càng cần phải phát huy hơn nữa những nguyên lý cốt lõi của Cách mạng Tháng Tám: Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; phát huy sức mạnh liên minh giai cấp công - nông - trí thức; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đặt con người làm trung tâm của chiến lược phát triển bền vững.
Nếu như Cách mạng Tháng Tám là mốc son của sự giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp trong thế kỷ XX, thì sự nghiệp phát triển bền vững hôm nay chính là biểu hiện cao nhất của tư tưởng độc lập - tự do - hạnh phúc trong thế kỷ XXI. Những giá trị cốt lõi ấy phải tiếp tục được giữ gìn, vận dụng và phát triển trong mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo các bài học của Cách mạng Tháng Tám không chỉ giúp chúng ta khơi dậy niềm tự hào dân tộc mà còn là kim chỉ nam để xây dựng một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ và hiện đại trong thế kỷ XXI./.
ThS. Nguyễn Trần Phương Hiền - Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, t.4, tr.596.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.2, tr.2.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, t.1, tr.111.