Nhảy đến nội dung
80 NĂM QUỐC KHÁNH VIỆT NAM – NON SÔNG GẤM HOA

80 NĂM QUỐC KHÁNH VIỆT NAM – NON SÔNG GẤM HOA

Cách đây 80 năm, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên tiến hành Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xóa bỏ ách thống trị của thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 – Mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc

Bước vào năm 1945, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bước sang một giai đoạn quyết định, khi thời cơ cách mạng lớn đang dần xuất hiện. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật tiến hành đảo chính lật đổ thực dân Pháp, thâu tóm Đông Dương làm thuộc địa riêng, đã làm thay đổi cục diện chính trị và tạo điều kiện để phong trào cách mạng phát triển nhanh chóng. Trước tình thế khẩn cấp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, sáng suốt, kịp thời hóa giải nguy cơ, biến thách thức thành thời cơ thuận lợi cho cách mạng.

Ngày 12/3/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trong đó, khẩu hiệu hành động quyết liệt “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” đã kịp thời đáp ứng nguyện vọng bức thiết của quần chúng, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh, cổ vũ nhân dân vùng lên khởi nghĩa. Thông qua phong trào này, quần chúng cách mạng được tập dượt, từng bước đi từ hình thức đấu tranh thấp đến cao, gắn kết giữa đấu tranh kinh tế, chính trị và vũ trang, tạo tiền đề trực tiếp cho Tổng khởi nghĩa.

Từ tháng 3 đến tháng 8/1945, Đảng ta tiếp tục đề ra nhiều chủ trương chiến lược, quyết định thúc đẩy cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ. Nổi bật là việc triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, ban hành Chỉ thị “Về việc tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng”, thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân, là lực lượng nòng cốt chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.

Giữa tháng 8/1945, tình thế cách mạng trực tiếp đã đến. Ngay sau khi nhận được tin Nhật Bản gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị mở cuộc đàm phán ngừng bắn, Thường vụ Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh họp vào ngày 12/8/1945, quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngày 13/8, nhận được tin phát xít Nhật bại trận và sắp đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số I, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa. Ngày 14/8, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào, phân tích chính xác tình hình và nhất trí: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành quyền độc lập hoàn toàn.

Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa kết thúc, Đại hội đại biểu Quốc dân cũng được tổ chức tại Tân Trào vào ngày 16/8. Với sự tham dự của hơn 60 đại biểu là các nhà cách mạng, giới trí thức, phụ nữ, thanh niên thuộc cả ba miền Bắc - Trung - Nam cùng một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào, Đại hội như Hội nghị Diên Hồng lần thứ hai của dân tộc; biểu tượng cho ý chí đồng lòng, quyết tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng tháng Tám. Đại hội nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua 10 chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu thực hiện, trong đó, điểm mấu chốt đầu tiên là giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đại hội quyết định thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 17/8, Đại hội đại biểu Quốc dân bế mạc trong không khí Tổng khởi nghĩa sôi sục.

Thực hiện Nghị quyết về Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân ta đã nhất tề vùng lên, tạo nên sức mạnh to lớn. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng Tám năm 1945 (từ ngày 13 đến 28/8/1945), cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trên phạm vi cả nước đã thuộc về nhân dân.

Trong những ngày cuối tháng 8/1945, nhân dân Hà Nội nhiệt liệt chào đón Giải phóng quân cùng các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ cách mạng lâm thời từ căn cứ Việt Bắc về, mở ra một cột mốc lịch sử mới của thời đại.

2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Dấu ấn thời đại

Thứ nhất, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã khẳng định khí phách quật cường, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, khi phải đồng thời đối diện với thực dân Pháp, một trong những đế quốc tư bản chủ nghĩa hùng mạnh nhất thời bấy giờ và chủ nghĩa phát xít cùng các đồng minh đang chi phối trật tự chính trị quốc tế, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên tiến hành cách mạng. Dân tộc Việt Nam đã khẳng định ý chí quật cường, tự mình quyết định vận mệnh đất nước, giành lấy những quyền dân tộc thiêng liêng và bất khả xâm phạm từ tay chủ nghĩa thực dân, chứ không phải sự ban phát của bất kỳ thế lực nào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thành công trong việc khơi dậy và phát huy nguồn lực mạnh mẽ nhất của dân tộc – đó là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Lợi ích của các giai tầng xã hội, của mỗi con người đều được đặt trong sự thống nhất với lợi ích tối cao của dân tộc. Từ đó, Đảng đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt Nam, tạo nên một lực lượng cách mạng to lớn, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thứ hai, Cách mạng Tháng Tám thành công đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Cách mạng Tháng Tám đã thay đổi số phận của cả dân tộc Việt Nam khi đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, dù gặp muôn vàn khó khăn thử thách, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã kiên quyết thực hiện tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xúc tiến tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Khác với các hình thức nhà nước của phong kiến, thực dân đã từng tồn tại ở Việt Nam, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[1].

Theo Người, chức năng đối nội cơ bản của nhà nước là hướng dẫn nhân dân tổ chức tốt đời sống, lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của nhân dân. Việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu lợi ích của nhân dân là tiêu chí hàng đầu để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của Nhà nước. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[2].

Thứ ba, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám đã đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi thân phận nô lệ, bị áp bức, bóc lột dưới ách thực dân, phong kiến, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, tự quyết định vận mệnh và tương lai của dân tộc mình.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã hoàn thành một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa hết sức to lớn trong sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam, chấm dứt mọi áp bức dân tộc, xóa bỏ sự bóc lột giai cấp và đập tan xiềng xích nô dịch về tinh thần. Dưới chế độ mới ra đời sau Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, lần đầu tiên được thụ hưởng những quyền tự do, dân chủ cơ bản: quyền tham gia vào chính quyền và công cuộc kiến thiết quốc gia; quyền bầu cử, ứng cử và bãi miễn đại biểu; quyền phúc quyết Hiến pháp và các vấn đề trọng đại liên quan đến vận mệnh dân tộc; quyền sở hữu tài sản; quyền được học tập; quyền tự do ngôn luận, tự do tổ chức, hội họp, tín ngưỡng, cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài… Những quyền dân chủ, bình đẳng ấy được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những giá trị chưa từng có trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam trước đó.

3. Việt Nam – Non sông gấm hoa

Tiếp nối kỷ nguyên độc lập, tự do mà Cách mạng Tháng Tám đã mở ra, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã mở ra một kỷ nguyên phát triển mới của quốc gia, dân tộc Việt Nam. Trải qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: vượt qua những thử thách cam go vào cuối thế kỷ XX; từng bước khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội; thoát khỏi tình trạng kém phát triển; không ngừng mở rộng hội nhập quốc tế sâu rộng, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trước đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục: “Nước ta từ một nước nghèo nàn, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng, quy mô và sự phát triển của nền kinh tế đạt được ở mức cao, từ năm 1986 đến năm 2023 đạt bình quân đạt mức 6,55%/năm. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Tổng sản phẩm nội địa bình quân đầu người năm 2025 gần gấp 25 lần sau ba thập kỷ”[3].

Những thành tựu mang tầm vóc thời đại của kỷ nguyên độc lập, tự do, cùng với những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong kỷ nguyên đổi mới và phát triển, đã tạo dựng nền tảng vững chắc để đất nước ta tự tin bước vào một giai đoạn mới – kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, sẽ khởi đầu từ Đại hội lần thứ XIV của Đảng: “là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao”[4].

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khai mở kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, khẳng định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội như một xu thế vận động tất yếu của thời đại, góp phần vào những dòng thác cách mạng sục sôi của thế kỷ XX. Bước vào kỷ nguyên đổi mới và phát triển, đất nước ta đã khẳng định bản lĩnh kiên định, tinh thần sáng tạo trong từng chặng đường, vượt qua những thử thách khắc nghiệt để mở ra tiền đồ tươi sáng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phía trước có nhiều thuận lợi, cơ hội cùng những khó khăn, thách thức đan xen, nhưng một kỷ nguyên mới đã mở ra, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam tới tầm cao của quốc gia phát triển, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là cơ sở để Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021) khẳng định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn mới là “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên cường đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”[5].

Chặng đường 80 năm phát triển của Việt Nam là một hành trình lịch sử hào hùng, thể hiện bản lĩnh kiên cường, trí tuệ sáng tạo và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của cả dân tộc. Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, dân tộc ta đã từng bước vượt qua muôn vàn khó khăn, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành quả ấy đã khẳng định tính đúng đắn của con đường phát triển mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, tạo dựng nền tảng vững chắc để hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc vào năm 2045.

Huỳnh Nguyễn Đăng Khoa - Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
 

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật,H.1995, tập 4, tr.64-65.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật,H.1995, tập 4, tr.175.

[3] https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/148499/45/Tai-lieu-tuyen-truyen-thanh-tuu-ket-qua-cua-dat-nuoc-sau-gan-40-nam-doi-moi;-thanh-tuu-ket-qua-noi-bat-cua-dat-nuoc-cua-tinh-giai-doan-2020---2025.html

[4] GS, TS Tô Lâm: “Cơ sở định vị mục tiêu phát triển và định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, báo Nhân Dân, số 25193, ngày 1-11-2024.

[5]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.109.