Nhảy đến nội dung
LIÊN MINH GIAI CẤP TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

LIÊN MINH GIAI CẤP TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công nông và các tầng lóp lao động khác là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, đã góp phần to lớn tạo nên thắng lợi hoàn toàn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và những thành quả to lớn trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp

Các nhà kinh điển khi đề cập đến vấn đề lực lượng cách mạng đã luận bàn đến liên minh công nông và khẳng định những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi nếu giai cấp nông dân ủng hộ những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản: “cách mạng vô sản mới thực hiện được bài đồng ca mà nếu không có được bài đồng ca này thì, trong tất cả các quốc gia nông dân, bài đơn ca của cách mạng vô sản sẽ trở thành một bài ai điếu”[1].

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến khả năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản với các tầng lớp trung gian. Trong khi thực hiện sứ mệnh lịch sử “tự giải phóng” giai cấp mình, giai cấp công nhân còn thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả là giải phóng nhân dân lao động, giải phóng các dân tộc và toàn thể nhân loại: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”[2].

Sau cách mạng 1848-1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông dân trở thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Từ thực tiễn lịch sử sinh động của Công xã Paris (năm 1871), một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã là do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân, C.Mác đã bổ sung cho lý luận của mình về liên minh công-nông: đó là vai trò hết sức quan trọng của giai cấp nông dân không chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ chính quyền.

Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân. Vì vậy, sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân, mà còn từ phía giai cấp nông dân. C.Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”[3]. Vì “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”[4].

Hai ông không những chỉ ra liên minh công nông và các tầng lớp lao động khác dưới góc độ chính trị mà còn dưới góc độ kinh tế. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên minh dưới góc độ kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác. Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là giải thích cho nông dân hiểu rõ, khi nào chủ nghĩa tư bản đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào hợp tác sản xuất: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”[5]. Ph.Ăngghen cũng cho rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra những nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối nông dân. Trước hết là không được dùng bạo lực đối với nông dân: “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”[6]. Thứ hai là, tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định như thế”[7]. Thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

C.Mác đã phê phán quan điểm của phái Látxan cho rằng: “Ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là một khối phản động” là một điều phi lý. Thực chất quan điểm Látxan đòi phủ định khả năng tham gia cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư sản, đẩy giai cấp vô sản vào thế bị cô lập, điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột. C.Mác đã nhắc lại trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[8]. Phê phán của C.Mác đối với chủ nghĩa Látxan trên vấn đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này trong phong trào cộng sản quốc tế.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp trong tiến trình cách mạng Việt Nam

 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thành phần chủ chốt trong Đảng là các phần tử ưu tú trong giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong các phong trào yêu nước và cách mạng. Đảng ta không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân như nhiều đảng mác xít ở các nước tư bản phát triển, mà còn là đội tiên phong của nhân dân lao động trong đó nòng cốt là công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra sách lược cơ bản của Đảng là phải lôi cuốn được giai cấp vô sản, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đi theo cách mạng, hình thành nên khối liên minh công-nông-trí, nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, có đoạn: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò,….là bầu bạn cách mệnh của công nông”[9].

Đặc biệt, tại Đại hội II của Đảng năm 1951, lần đầu tiên vấn đề liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức chính thức được Đảng ta khẳng định: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”[10]. Đến Đại hội VII năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ rõ: “xây dựng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, làm nền tảng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa”[11].

Tư tưởng này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và trở thành vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”[12]. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”[13].

Nêu bật tầm quan trọng của khối liên minh đối với cách mạng nước ta, Đại hội XII chỉ rõ: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”[14].

3. Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong kỷ nguyên vươn mình hiện nay

Từ các quan điểm nêu trên và với mục tiêu tổng quát mà Đảng ta nêu ra tại Đại hội XIII là: Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì tăng cường liên minh công - nông - trí thức phải phù hợp theo những giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là phương hướng vừa cấp bách vừa lâu dài của liên minh công - nông - trí thức ở nước ta.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là sự nghiệp của toàn dân, là môi trường để các giai cấp, tầng lớp, trong đó có lực lượng đông đảo, cơ bản là công nhân, nông dân, trí thức... vươn lên cống hiến và trưởng thành. Phải xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cần huy động và phát huy mọi nguồn lực từ nông dân, cùng với các nguồn lực khác để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân thông minh. Phải xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới. Đây là phương hướng có ý nghĩa sâu sắc và mang tính toàn diện của liên minh công - nông - trí thức ở nước ta.

Trong điều kiện của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa, xây dựng nông thôn mới ở nước ta là xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; môi trường xanh, sạch, đẹp; đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm.

Xây dựng nông thôn mới, phải là sự hợp lực của các nhà kỹ thuật và của bộ phận công nhân công nghiệp ở các ngành công nghiệp nền tảng, như: công nghiệp năng lượng cơ khí chế tạo, hóa chất, phân bón, vật liệu...; cũng như những ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, như: công nghệ thông tin và truyền thống, dược phẩm, chế phẩm sinh học, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo...

Trong xây dựng nông thôn mới đòi hỏi, một mặt, phải nâng cao vai trò chủ thể của người nông dân; mặt khác, phải đẩy mạnh sự liên kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau... của các giai cấp, tầng lớp mà nền tảng là liên minh công - nông - trí thức, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ba là, sáng tạo khoa học và công nghệ gắn với thực tiễn sản xuất của công nhân, nông dân, của phát triển công nghiệp và nông nghiệp... trong công cuộc đổi mới.

Hướng hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ để phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, đồng thời có được ngày càng nhiều bộ phận “công nhân trí thức”; để phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả bền vững, có được ngày càng đông đảo lực lượng nông dân được đào tạo, lao động với công nghệ cao và xây dựng nông thôn mới rộng khắp.

Một mặt, nắm vững những định hướng “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ” mà Đại hội XIII nêu ra. Đồng thời cần tiếp tục quán triệt, thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp phát triển khoa học và công nghệ được xác định trong Nghị quyết 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Bốn là, lựa chọn, hoàn thiện và nhân rộng các mô hình xúc tiến liên minh công - nông - trí thức.

Các mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp với mục đích giải quyết “đầu ra” cho nông sản, Chính phủ ra Nghị định số 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã đến với nông dân, nhưng qua thực tế, để tiêu thụ được sản phẩm đúng yêu cầu (thời gian, chủng loại, chất lượng... nông sản), doanh nghiệp không chỉ liên kết với nông dân về tiêu thụ sản phẩm, mà cả về sản xuất, phải giúp nông dân cả về vốn, kỹ thuật, khuyến nông... Từ đó, phát triển các mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp như mô hình liên kết 4 nhà, mô hình liên kết 5 nhà, mô hình liên kết 6 nhà, mô hình liên kết theo chuỗi giá trị...

Việc lựa chọn, hoàn thiện và nhân rộng các mô hình liên minh công - nông - trí thức hiện nay cần hướng tới những mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2030, 2045 (một cách tương ứng với nội dung cụ thể của liên minh) mà Đại hội XIII nêu ra. Liên minh công - nông - trí thức mang tính toàn diện, do đó việc tiếp tục xây dựng các điển hình, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả ở các mặt khác (văn hóa, xã hội...).

Liên minh công - nông - trí thức cũng như đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, hướng tới mục đích chung, như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định, là để: “Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi”[15]. Đấy cũng chính là mục tiêu quan trọng để “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” như Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Như vậy, liên minh giai cấp trong kỷ nguyên vươn mình không chỉ là một là một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới một xã hội “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Việc củng cố và tăng cường liên minh giai cấp là một yếu tố then chốt để Việt Nam vượt qua những thách thức, nắm bắt cơ hội, và đạt được những thành tựu to lớn trong tương lai../.

CN. Huỳnh Nguyễn Đăng Khoa - Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.2, tr.410.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr.911.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 7, tr. 84-85.

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 8, tr. 269. 

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 22, tr. 737 - 738.

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 22, tr. 736.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 22, tr. 738.

[8] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 4, tr. 613.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà nội, 2013, t.2, tr.288.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr.437.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.9.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86

[13]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.85.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.158.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.80.