CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - THÀNH CÔNG ĐIỂN HÌNH CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - THÀNH CÔNG ĐIỂN HÌNH CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi ra đời đã tìm thấy động lực cách mạng từ nguồn sức mạnh to lớn của quần chúng và xác định cho mình nhiệm vụ tổ chức, tập hợp, đoàn kết các lực lượng, coi đây là chiến lược xuyên suốt, nhất quán, là căn nguyên của sức mạnh trong mọi thời kỳ. Việc tập hợp lực lượng cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những yếu tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là một chính sách lớn của Đảng, thể hiện sự sáng tạo trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, Mặt trận dân tộc thống nhất với các tên gọi và hình thức thích hợp với mục tiêu đấu tranh của từng giai đoạn cụ thể: Hội phản đế đồng minh (18/11/1930) là tổ chức mặt trận đầu tiên; Mặt trận dân chủ Đông Dương đã tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong những năm 1936 - 1939 đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hòa bình; Việt Nam Độc lập Đồng minh (Mặt trận Việt Minh) ra đời ngày 19/5/1941 đã đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1. Chủ trương của Đảng về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền
Đường lối đoàn kết toàn dân tộc của Đảng dựa trên cơ sở quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước; dựa trên đúc kết kinh nghiệm các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp trước khi có Đảng; dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong cương lĩnh, văn kiện đại hội và các hội nghị Trung ương:
Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Cương lĩnh đã hàm chứa những luận điểm về xây dựng khối đại đoàn kết - tiền đề xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Trước hết Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình nghĩa là phải tập hợp, đoàn kết giai cấp công nhân Việt Nam làm hạt nhân để đoàn kết các giai cấp và lực lượng khác. Chỉ có như vậy mới làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được dân chúng,… Sách lược vắn tắt của Đảng ghi rõ: Đảng phải thu phục đại bộ phận và làm cho giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo dân chúng và giai cấp nông dân, đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”.
Quán triệt chủ trương của Đảng, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc thành lập Hội Phản đế đồng minh - tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất đầu tiên do Đảng lãnh đạo. Chỉ thị xác định: Hội phải đảm bảo tính chất công nông và phải mở rộng đến các thành phần trong dân tộc để Mặt trận thật sự là của toàn dân, trong đó “công nông là hai động lực chính căn bản cho sự bố trí hàng ngũ cách mạng”, đồng thời nhấn mạnh: “không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (3/1935), Đảng khẳng định, nguồn gốc sức mạnh của Đảng chính là mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng. Nếu Đảng không được quần chúng ủng hộ thì “những nghị quyết cách mạng của Đảng chỉ là những lời nói không”. Do vậy, việc tranh thủ rộng rãi quần chúng là nhiệm vụ “trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng” và đã ra nghị quyết thành lập tổ chức Phản đế liên minh và thông qua Điều lệ của tổ chức này. Chủ trương của Đảng đã góp phần khôi phục các tổ chức cơ sở đảng, các tổ chức quần chúng, đưa cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới.
Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, tại Hội nghị Trung ương tám (5/1941), Đảng chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi “thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”; phải tổ chức mô hình Mặt trận Dân tộc thống nhất phù hợp; khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Dân tộc thống nhất phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng chủ trương xây dựng Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), nhằm huy động sức mạnh toàn dân tộc, phát huy tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, tạo thời cơ tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). Với Mặt trận Việt Minh, vấn đề đại đoàn kết dân tộc của Đảng được nâng lên một tầm cao mới về chất - Đại đoàn kết có tổ chức chặt chẽ, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán, chỉ đạo toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn 15 năm đấu tranh giành chính quyền, khẳng định sự đúng đắn và có sự phát triển về tư duy lý luận, dẫn dắt nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Mặt trận dân tộc thống nhất - nhân tố làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám
Hội Phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (1930)
Hội Phản đế đồng minh đã tập hợp đông đảo quần chúng, trước hết là công - nông, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cao trào cách mạng 1930 - 1931, thành lập chính quyền Xô viết. Hội Phản đế đồng minh ra đời khẳng định sự đúng đắn của Đảng về xây dựng lực lượng cách mạng và đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về chỉ đạo thực tiễn trong quá trình xây dựng và tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất. Kết quả của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã khẳng định khả năng cách mạng của công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng qua Hội Phản đế đồng minh.
Phản đế liên minh, bước phát triển mới về Mặt trận Dân tộc thống nhất (1935)
Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (3/1935) đã ra nghị quyết thành lập tổ chức Phản đế liên minh và thông qua điều lệ của tổ chức này. Điều lệ của Phản đế liên minh đã mở rộng và linh hoạt hơn: Hễ người nào, vô luận đàn ông, đàn bà, già trẻ, tôn giáo, xu hướng chính trị hoặc đoàn thể chỉ cần thừa nhận Nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên. Trong thời kỳ đấu tranh khôi phục phong trào cách mạng (1932 - 1935), trên cơ sở rút kinh nghiệm của thời kỳ 1930 - 1931, Đảng từng bước có chính sách tập hợp quần chúng xung quanh mình để tiến hành cuộc đấu tranh.
Vận động thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 - 1940)
Trong những năm 1936 - 1940, nhằm thực hiện mục tiêu đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh; đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình, Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra chủ trương lập Mặt trận rộng rãi. Tuy mang nhiều tên gọi khác nhau như: Mặt trận Nhân dân, Mặt trận Dân chúng thống nhất phản đế, Mặt trận Dân tộc phản đế, Mặt trận Nhân dân phản đế, Mặt trận Thống nhất Đông Dương... nhưng tính chất, nội dung vẫn là Mặt trận Dân chủ. Đây cũng là thời kỳ Đảng liên minh với các đảng phái thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp theo những xu hướng chính trị, xã hội khác nhau với mục tiêu chung: Yêu nước, dân chủ, chống chủ nghĩa phát xít. Qua đó phát động một cao trào đấu tranh cách mạng sôi động đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống bọn phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới. Đây là hình thức mặt trận rộng rãi, khắc phục được hạn chế trong hoạt động của Mặt trận Dân chủ, tạo được ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân.
Thành lập Mặt trận Việt Minh - ngọn cờ tập hợp toàn dân đấu tranh giành chính quyền (1941)
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, tháng 10/1941, theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh được thành lập, tập hợp khối đoàn kết dân tộc rộng rãi chống đế quốc và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Đây là lần đầu tiên, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập xác định rõ ràng đường lối, chính sách, cách thức tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu quốc. Mặt trận Việt Minh sử dụng phương pháp hiệu triệu tinh thần dân tộc, cổ vũ, động viên sự tích cực tham gia kháng chiến của nhân dân.
Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh là sự cụ thể hóa tư tưởng đại đoàn kết của Đảng và Hồ Chí Minh. Trước hết, quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp tham gia vào Mặt trận Việt Minh được thể hiện ngay trong mục tiêu cao nhất của nó là vấn đề chính quyền nhà nước sau khi đánh đổ được đế quốc và tay sai. Đó không phải là chính quyền công nông binh như cách đặt vấn đề trước đây của Đảng, mà là một chính quyền “không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung cả toàn thể dân tộc”. Đi vào cụ thể, Mặt trận Việt Minh đã ban hành 10 chính sách bảo đảm quyền lợi nhất định của các giai, tầng - vấn đề cốt yếu của mặt trận đoàn kết. Vì vậy, Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân dân ta là giành độc lập, tự do vì “một là ích quốc, hai là lợi dân”.
Nhờ tổ chức chặt chẽ và triển khai thực hiện hướng đến mục tiêu chung của dân tộc và lợi ích thiết thân cho các giai tầng trong xã hội, phong trào Việt Minh phát triển nhanh chóng, chính sách của Việt Minh được thực hiện từng bước ở nhiều địa phương; nhiều Ủy ban Việt Minh xã được thành lập không chỉ lãnh đạo giải quyết những vấn đề chính trị mà còn làm nhiệm vụ quản lý đời sống xã hội về các mặt kinh tế, văn hóa,...
Chính sách đoàn kết, tập hợp lực lượng toàn dân của Đảng trong Mặt trận Việt Minh ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh, trên cơ sở thực tiễn tình hình và yêu cầu của cách mạng. Năm 1943, Hội văn hóa cứu quốc - một thành viên của Mặt trận Việt Minh đã được thành lập. tiếp đến các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh được thành lập và phát triển nhanh chóng ở khắp các tỉnh, thành phố nhiều tổ chức thành viên như: Công hội, thanh niên, phụ nữ,... Trước sự phát triển của Mặt trận Việt Minh và trước yêu cầu của cách mạng, các hội Cứu quốc quân được thành lập. Các hội Cứu quốc quân đã tích cực vận động quần chúng tham gia các hoạt động của Mặt trận, mở rộng căn cứ cách mạng, phát triển lực lượng vũ trang. Để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập và lập được chiến công ngay từ những trận đầu ra quân ở Phai Khắt, Nà Ngần.
Sở dĩ Mặt trận Việt Minh có sức lôi cuốn mạnh mẽ và trở thành đại diện cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam chính vì nó thoát khỏi những định kiến hẹp hòi, đánh giá đúng sức mạnh của các giai, tầng trong xã hội. Vì vậy, đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân nổi dậy nhanh chóng đè bẹp kẻ thù. Cứu quốc đã trở thành nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước. Mặt trận Việt Minh trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh của toàn dân, trở thành động lực cơ bản của Cách mạng Tháng Tám. Dưới ngọn cờ của Việt Minh, hàng chục triệu hội viên, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán,… đã đứng dậy tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa vĩ đại giành độc lập cho dân tộc.
Trong thời gian này phải kể đến một chủ trương rất quan trọng, đúng đắn và kịp thời của Đảng và Mặt trận Việt Minh đó là chính sách “phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói”. Chủ trương này đã đáp ứng đúng nguyện vọng bức thiết của nhân dân và qua đó quần chúng nhân dân đã nhận thức được rằng muốn giành quyền sống cho mình phải đoàn kết dưới ngọn cờ của Việt Minh đấu tranh đánh đổ ách thống trị của phát xít Nhật và bè lũ tay sai của chúng.
Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, cơ hội “ngàn năm có một” để giành độc lập cho dân tộc đã đến. Trung ương Đảng đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân Tân Trào đã quyết định Tổng khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân toàn quốc hãy đứng lên giành lấy chính quyền. Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam đã kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi và nhanh chóng do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do chính sách đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh do Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh thành lập và lãnh đạo. Mặt trận Việt Minh đã giương cao ngọn cờ dân tộc, xác định đúng kẻ thù, có những chủ trương, chính sách đúng đắn, những khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng yêu cầu cách mạng, phù hợp với nguyện vọng và quyền lợi bức thiết của mọi tầng lớp nhân dân. Nhờ đó, mùa thu năm 1945, khi Hồng quân Liên Xô đánh thắng phát xít, Đảng đã kịp thời phát động cuộc toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Vì vậy, Mặt trận Việt Minh được xem là một điển hình thành công của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng cách mạng, hình thành đội quân chính trị hùng mạnh, từ đó xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang góp phần tạo nên thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Cách mạng Tháng Tám là sản phẩm của chính sách đoàn kết, tập hợp lực lượng toàn dân tộc của Đảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất mà đỉnh cao là Mặt trận Việt Minh. Hình thức, phương pháp ấy đã được khai thác triệt để và phát triển trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng đất nước: Mặt trận Liên Việt, Mặt trận thống nhất Việt Minh - Liên Việt (Mặt trận Liên Việt) (1945 - 1954); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở Miền Bắc; Mặt trận dân tộc thống nhất giải phóng Miền Nam Việt Nam, Liên minh Các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở miền Nam (1954 - 1975). Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực hiện tốt công tác đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở quán triệt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã tạo ra những “mẫu số chung”, nguồn “sức mạnh nội sinh”, “điểm tựa” giúp dân tộc vượt qua mọi thách thức, khó khăn, nhằm hiện thực hóa mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đạt những thành tựu hơn nữa trong đổi mới và dẫn dắt dân tộc vươn mình trong kỷ nguyên mới.
ThS. Đoàn Thị Mao - Giảng viên khoa Xây dựng Đảng