Nhảy đến nội dung
PHÁT HUY TINH THẦN QUỐC KHÁNH 2/9 - KIẾN TẠO NHÀ NƯỚC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN

PHÁT HUY TINH THẦN QUỐC KHÁNH 2/9 - KIẾN TẠO NHÀ NƯỚC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN

Trước năm 1945, dân tộc Việt Nam bị đặt dưới ách thống trị thực dân và phát xít, không chỉ mất đi quyền tự quyết dân tộc mà còn bị tước đoạt những quyền tự do cơ bản của con người. Trong bối cảnh đó, Cách mạnh Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đã dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 không chỉ khai sinh một nhà nước kiểu mới mà còn khẳng định trước cộng đồng quốc tế quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của Nhân dân Việt Nam. Từ nền tảng lịch sử đó, tinh thần Quốc khánh 2/9 tiếp tục trở thành nguồn lực tư tưởng và chính trị cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một nhà nước kiến tạo phát triển, phục vụ Nhân dân.

1. Ý nghĩa lịch sử ngày Quốc khánh (2/9/1945) - Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại.

Trước năm 1945, dân tộc Việt Nam phải sống trong cảnh áp bức, bóc lột tàn bạo dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và phát xít. Quyền sống, quyền tự do và quyền làm chủ của Nhân dân bị tước đoạt, đất nước lâm vào tình cảnh mất độc lập, Nhân dân sống kiếp nô lệ, lầm than. Trước thực trạng đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã kiên cường đứng lên tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945-cuộc cách mạng mang tính chất toàn dân, toàn diện và triệt để. Sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của toàn dân tộc. Đồng thời, đó cũng là lời khẳng định mạnh mẽ trước toàn thế giới về quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của Nhân dân Việt Nam - những quyền cơ bản được ghi nhận trong các tuyên ngôn của cách mạng Mỹ năm 1776 và Cách mạng Pháp năm 1789. 

Về mặt lịch sử, thắng lợi vang dội của cuộc cách mạng không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí tự cường và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà còn khẳng định vai trò quyết định của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo Nhân dân thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Theo thống kê, chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945), cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi, chính quyền trong cả nước về tay Nhân dân. Về mặt thời đại, Tuyên ngôn độc lập không chỉ là tiếng nói chính trị của dân tộc Việt Nam mà còn là sự hòa điệu với làn sóng giải phóng dân tộc lan rộng sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giành độc lập ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh, trở thành biểu tượng cho tinh thần tự quyết và khát vọng tự do của các dân tộc thuộc địa. 

Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của ngày Quốc khánh 2/9 không chỉ được ghi nhận trong lịch sử dân tộc, mà còn tiếp tục là nguồn cảm hứng, là nền tảng tư tưởng và chính trị cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đó là nền tảng để khẳng định rằng, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân, vì Nhân dân và phục vụ Nhân dân - đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[1].

2. Tinh thần Quốc Khánh 2/9: Kiến tạo nhà nước, phục vụ Nhân dân trong thời kỳ đổi mới và hội nhập

Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc: lần đầu tiên trong lịch sử, người dân Việt Nam trở thành chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, có quyền trực tiếp bầu ra người đại diện và tham gia vào tiến trình xây dựng đất nước. Việc ban hành Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam - đặt nền móng cho tư tưởng “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Từng điều khoản trong Hiến pháp 1946 đều nhất quán nguyên tắc: “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”[2]; đồng thời, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân như bầu cử, ứng cử, quyền tự do cá nhân, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội … Đây chính là cơ sở pháp lý đầu tiên để người dân thực thi quyền làm chủ một cách thực chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 

Trong nền tảng đó, tinh thần của ngày Quốc khánh 2/9 là điểm tựa tư tưởng và chính trị xuyên suốt trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một mô hình nhà nước thượng tôn pháp luật, đặt mục tiêu phục vụ Nhân dân làm trung tâm. Nguyên lý “quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” được thể chế hóa liên tục trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và hội nhập. Mỗi bản Hiến pháp là một bước tiến về thể chế dân chủ, mở rộng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời, xác lập cơ chế thực thi ngày càng hiệu quả. Đáng chú ý, Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi căn bản trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính, tổ chức bộ máy, cải cách tư pháp…, với mục tiêu xuyên suốt là nâng cao chất lượng quản trị và phục vụ Nhân dân, lấy con người làm trung tâm của phát triển - tinh thần đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản Tuyên ngôn năm 1945. 

Tư tưởng “Lấy người dân làm trung tâm” không chỉ dừng lại ở các quy định mang tính Hiến định, mà còn được cụ thể hóa thông qua nhiều chính sách, chương trình hành động cụ thể trên các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực cải cách hành chính, Nhà nước đã chủ động tinh giản bộ máy, sáp nhập cơ quan có chức năng tương đồng, cải tiến quy trình xử lý công việc, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng phục vụ Nhân dân. Với mục tiêu lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo hiệu quả phục vụ đã cho thấy sự chuyển biến rõ rệt. Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS) năm 2024 đạt trên 83,94%[3], cho thấy sự ghi nhận thực tế từ xã hội đối với nỗ lực của bộ máy hành chính nhà nước. 

Trong lĩnh vực an sinh xã hội, Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ các nhóm yếu thế như: người nghèo, người có công, người khuyết tật, người cao tuổi... Các chương trình mục tiêu quốc gia như xóa đói giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và chính sách bảo hiểm y tế toàn dân là minh chứng rõ nét cho chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Tính đến năm 2024, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ở Việt Nam đã đạt trên 93,35%[4] khẳng định nỗ lực của Nhà nước trong đảm bảo quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho mọi người dân. Trong lĩnh vực giáo dục và y tế công tiếp tục được ưu tiên theo hướng công bằng, toàn diện và chất lượng cao. Chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ học sinh vùng khó khăn, cùng với việc phát triển hệ thống đào tạo nghề và giáo dục đại học chất lượng cao đã và đang phục vụ thiết thực nhu cầu học tập, phát triển của người dân. Cùng với đó, hệ thống y tế cơ sở được củng cố, mở rộng kết hợp xã hội hóa hợp lý nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế chất lượng, chi phí hợp lý.

Đặc biệt, trong thời đại công nghệ số, Nhà nước đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, từng bước chuyển đổi từ "quản lý" sang "phục vụ". Việc triển khai Cổng dịch vụ công quốc gia, căn cước gắn chip, hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư và các nền tảng số dùng chung đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính nhanh chóng, minh bạch. Mục tiêu, đến năm 2025, số hóa toàn bộ hồ sơ, quy trình xử lý trong các cơ quan hành chính nhà nước là bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu quả, lấy Nhân dân làm trung tâm phục vụ.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, Nhà nước cũng chủ động hội nhập quốc tế nhằm mở rộng cơ hội phát triển cho người dân và nâng cao vị thế quốc gia. Việc ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) không chỉ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện đời sống Nhân dân thông qua việc mở rộng cơ hội việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng sống.

Những kết quả trên cho thấy, từ một quốc gia từng trải qua chiến tranh tàn khốc, từng bị gạt ra ngoài lề của các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã từng bước khẳng định vai trò và vị thế của mình: thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều nước lớn, và hiện đứng thứ 33 toàn cầu về năng lực cạnh tranh quốc gia. Những thành quả này là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một mô hình đặt Nhân dân vào vị trí trung tâm, Nhân dân vừa là chủ thể vừa là mục tiêu tối thượng cho mọi chính sách phát triển.

Tóm lại, tinh thần Quốc khánh 2/9 không chỉ là dấu son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước, mà còn là cội nguồn sức mạnh, là kim chỉ nam để dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ trên con đường hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập toàn cầu. Từ bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày nay, tinh thần ấy vẫn luôn sống động, hun đúc ý chí tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển, đặt Nhân dân vào vị trí trung tâm của mọi chính sách. Đó chính là nền tảng tư tưởng, chính trị và thực tiễn để Việt Nam vững bước tiến lên, hiện thực hóa khát vọng trở thành một quốc gia hùng cường, thịnh vượng và văn minh trong thế kỷ XXI.

ThS. Trần Thị Quỳnh Nghi - Giảng viên khoa Nhà nước và Pháp luật

[1].  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia  Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 434

[2]. Điều 1, Hiến pháp năm 1946

[3]. Công bố kết quả Chỉ số hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước và Chỉ số cải cách hành chính năm 2024; https://moha.gov.vn/tin-tuc---su-kien/cong-bo-ket-qua-chi-so-hai-long-ve-su-phuc-vu-cua--d608-t57024.html

[4]. Bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh và bền vững; https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/bao-phu-bao-hiem-y-te-tang-nhanh-va-ben-vung